Xuất khẩu lao động là hoạt động kinh tế dưới hình thức cung ứng lao động Việt Nam ra nước ngoài theo hợp đồng có thời hạn, phục vụ cho nhu cầu nhân công lao động của doanh nghiệp nước ngoài. Hiện nay, nhu cầu xuất khẩu lao động của người dân đnag tăng cao, thúc đẩy các việc thành lập các trung tâm xuât khâu lao đông ngoài nước được thành lập nhiều, đặc biệt là tại các thành phố lớn. chúng tôi xin hướng dẫn quý khách hàng về điều kiện, thủ tục và một số lưu ý khi thành lập công ty xuất khẩu lao động tại Việt Nam.
Có cơ hội nào đi Xuất khẩu lao động sang Nhật Bản ở độ tuổi 40
Dù có một số rào cản, nhưng vẫn có nhiều cơ hội cho người gần 40 tuổi:
Xem thêm: Chi phí xkld Nhật Bản 2024 – Bạn nên biết
Việc xuất khẩu lao động Nhật Bản ở độ tuổi 40 không phải là điều không thể. Mặc dù có một số thách thức, nhưng nếu bạn chuẩn bị tốt và lựa chọn đúng chương trình, cơ hội để bạn thực hiện ước mơ này vẫn rất khả thi. Hãy tìm hiểu kỹ và sẵn sàng cho hành trình mới của mình!
Nếu bạn còn thắc mắc hay cần thêm thông tin, đừng ngần ngại liên hệ với Daystar để được tư vấn và hỗ trợ!
Đi xuất khẩu lao động Nhật Bản tại Osaka có mức lương cao, chi phí thấp, việc làm thêm nhiều, đơn hàng đa dạng ngành nghề cùng nhiều chế độ lương thưởng hấp dẫn
Xuất khẩu lao động Nhật Bản tại Osaka đã trở thành điểm đến được rất nhiều người lao động lựa chọn. Bởi vì trong số 47 tỉnh thành thì Osaka chính là trung tâm thương mại lớn nhất ở Nhật Bản hiện nay. Ở đây còn tập trung rất nhiều doanh nghiệp lớn hoạt động trên nhiều lĩnh vực, thu hút đông đảo người lao động ở các nơi về làm việc. Không chỉ đóng vai trò là đầu tàu trong nền kinh tế, đến với Osaka người lao động còn được trải nghiệm những điều thú vị về văn hóa ẩm thực. Tự mình khám phá những địa danh nổi tiếng chỉ có ở đất nước mặt trời mọc… Chính những điều trên ở Osaka đã thu hút sự quan tâm của lao động Việt ngày một nhiều.
Osaka - địa điểm lý tưởng để sinh sống và làm việc
Xuất khẩu lao động sang Nhật Bản ở độ tuổi 40: Có thể hay không?
Xuất khẩu lao động (XKLĐ) Nhật Bản ngày càng trở thành lựa chọn hấp dẫn cho nhiều người lao động Việt Nam. Với môi trường làm việc chuyên nghiệp và thu nhập ổn định, việc đi Nhật làm việc không chỉ giúp bạn cải thiện tài chính mà còn là cơ hội để trải nghiệm văn hóa mới. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: xuất khẩu lao động sang Nhật Bản ở độ tuổi 40: có thế hay không? Hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này.
+ Đến với Osaka, người lao động không phải quá lo lắng về vấn đề khí hậu
Khí hậu cũng là một trong các yếu tố khiến người lao động băn khoăn nhất mỗi khi lựa chọn địa điểm làm việc. Tại vì tính chất khí hậu, thời tiết ở Nhật Bản không giống như ở Việt Nam. Mùa đông lạnh buốt khiến nhiều người không khỏi e ngại. Tuy nhiên ở Nhật vẫn có một số tỉnh có nền khí hậu khá tương đồng với Việt Nam, trong đó có Osaka. Osaka nằm ở phía nam của hòn đảo Honshu nên nền nhiệt ấm hơn so với các tỉnh thành ở khu vực phía Bắc. Nhiệt độ bình quân trên 10o C vào mùa đông và 32o C vào mùa hè. Sự tương đồng về thời tiết sẽ giúp ích cho lao động Việt rất nhiều trong việc thích nghi với cuộc sống.
+ Thoải mái tìm kiếm việc làm mà không lo bị gò bó
Ở Osaka hiện có rất nhiều công ty, xí nghiệp quy mô lớn với thương hiệu nổi tiếng trên toàn thế giới đang hoạt động như: Công ty Nikon, Fujico, Komatsu, Nova, Sharp, Panasonic,… Để phục vụ cho sự phát triển của mình, các công ty, doanh nghiệp này thường xuyên tuyển dụng lao động với số lượng lớn mỗi năm. Nhờ đó mà người lao động khi lựa chọn Osaka họ sẽ được thoải mái lựa chọn công việc cho mình. Đến với Osaka, bạn có thể đăng ký làm các công việc như:
- Chế biến thực phẩm: Làm bánh mì, Pizza, cơm hộp, đồ ăn sẵn, sushi,…
- Sản xuất linh kiện điện tử, cơ khí, linh kiện oto,…
- Làm các công việc liên quan đến ngành xây dựng.
Xét về mức lương cơ bản, Osaka chỉ đứng sau Tokyo và nằm trong Top 3 khu vực đang được trả lương cao nhất ở Nhật Bản hiện nay. Bình quân mỗi giờ làm việc trong giờ hành chính, người lao động sẽ được phía công ty, doanh nghiệp tiếp nhận trả 950 yên/ giờ. Mỗi ngày làm 8 tiếng theo đúng quy định của bộ Luật Lao động Nhật Bản. Như vậy, mỗi tháng người lao động nhận về số tiền không dưới 30 triệu đồng. Đó là chưa kể các thực tập sinh, tu nghiệp sinh còn có thêm một nguồn thu nhập khá từ việc làm thêm, tăng ca. Sống ở đất nước mặt trời mọc, nếu biết cách chi tiêu tiết kiệm, người lao động sẽ dành dụm được số tiền không nhỏ để gửi về nhà.
Xem ngay: Top 4 đơn hàng có mức lương đi xuất khẩu lao động Nhật Bản cao
Mức lương giờ tại Osaka - Nhật Bản cao và ổn định
+ Giao thông ở Osaka vô cùng thuận tiện
Ở Osaka hiện có 3 sân bay lớn đang hoạt động. Các hệ thống sân bay đều được kết nối một cách chặt chẽ với trung tâm thành phố và vùng ngoại ô phục vụ cho việc đi lại của người dân nơi đây. Bên cạnh đó còn có hệ thống tàu điện ngầm hết sức hiện đại, rộng khắp trên toàn địa bàn thành phố. Với hệ thống giao thông thuận tiện như thế, các thực tập sinh, tu nghiệp sinh sống ở Osaka không còn phải lo lắng về vấn đề đi lại của mình.
Với những lý do trên có thể khẳng định rằng, lựa chọn đi xuất khẩu lao động Nhật Bản tại Osaka thực sự là quyết định đúng đắn của người lao động. Đến với Osaka, bạn không chỉ nhận được mức lương cao mỗi tháng, mà còn được trải nghiệm những điều thú vị về văn hóa ẩm thực, khám phá những địa danh nổi tiếng… Đặc biệt hơn, chi phí sinh hoạt ở Osaka không quá cao, giúp bạn dành dụm và gửi về nhà số tiền không nhỏ vào mỗi tháng.
Trước năm 2020, số lượng sinh viên nước ngoài nhập học tại các trường đại học, trường dạy tiếng Nhật và các cơ sở giáo dục khác ở Nhật Bản đã tăng 7 năm liên tiếp, đạt mức cao kỷ lục 312.214 người vào tháng 5/2019. Tuy vậy, từ năm 2020, do đại dịch Covid-19 nên nhiều du học sinh nước ngoài phải hủy bỏ hoặc hoãn kế hoạch học tập của mình ở Nhật Bản, khiến lượng du học sinh nhập cảnh Nhật Bản giảm mạnh. Chẳng hạn, mặc dù tính đến tháng 5/2020, số lượng du học sinh Trung Quốc đang học tập tại Nhật Bản giảm 2,1% so với cùng kỳ năm 2019, song vẫn đứng đầu với 121.845 người; Việt Nam vẫn duy trì vị trí thứ hai với 62.233 người, mặc dù giảm 15,2%; tiếp theo là Nepal với 24.002 người, giảm 8,8%; số lượng du học sinh đến từ Hàn Quốc giảm 13,9%, xuống còn 15.785 người, trong khi du học sinh đến từ Đài Loan giảm tới 26%, xuống còn 7.088 người[7].
Du học sinh là loại lao động được phía Nhật Bản đánh giá cao do đem lại lợi ích đáng kể cho các doanh nghiệp và cơ sở giáo dục tại Nhật Bản không những bằng cách bù đắp cho tình trạng thiếu hụt lao động của ngành dịch vụ Nhật Bản như là nguồn cung cấp lao động bán thời gian cho các nhà hàng, siêu thị, cửa hàng tiện lợi, khách sạn… mà còn là nguồn thu đáng kể cho ngành giáo dục Nhật Bản.
1.3. Kỹ năng đặc định và lao động có trình độ chuyên môn cao
Từ tháng 5/2019, lao động kỹ năng đặc định[8] nước ngoài đầu tiên nhập cảnh Nhật Bản là người Việt Nam và theo số liệu chính thức, đến hết tháng 11/2019, trong tổng số 544 lao động kỹ năng đặc định nước ngoài nhập cảnh Nhật Bản, Việt Nam chiếm tỉ lệ cao nhất 51,5% hay 280 người. Đối với lao động có trình độ chuyên môn cao, hiện có gần 5.000 lao động có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên đang làm việc tại Nhật Bản theo visa kỹ thuật, nhân văn... Trong số này, nhiều lao động là du học sinh tốt nghiệp trường cao đẳng nghề, đại học rồi ở lại làm việc, nhưng cũng có ngày càng nhiều lao động được tuyển trực tiếp từ Việt Nam sang theo hợp đồng cá nhân[9]. Lao động Việt Nam loại này cũng luôn được các doanh nghiệp Nhật Bản đánh giá cao về trình độ, năng lực.
1.4. Các chương trình tuyển dụng thực tập sinh hộ lý và điều dưỡng EPA
Đây là chương trình xuất khẩu lao động ngành điều dưỡng và hộ lý sang Nhật Bản, kết quả của Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản ký năm 2012. Năm 2019 là năm thứ hai Việt Nam tham gia kỳ thi quốc gia Nhật Bản theo Chương trình tuyển dụng điều dưỡng, hộ lý EPA. Kết quả đã có 93 người đỗ trong số 106 hộ lý Việt Nam tham gia, đạt tỷ lệ 87,7%, cao hơn mức đỗ bình quân và cao hơn nhiều so với tỷ lệ đỗ của một số nước Đông Nam Á.
Đối với điều dưỡng, năm 2019 có 48 điều dưỡng Việt Nam dự thi, kết quả có 23 người đỗ, đạt tỷ lệ 47,9%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ đỗ của điều dưỡng EPA Indonesia và Philippines. Về thực tập sinh hộ lý, đến nay, thực tập sinh hộ lý Việt Nam vẫn chiếm số lượng đông nhất tại Nhật Bản với khoảng 1.000 người.
Sau 10 năm thực hiện chương trình (2012-2022), Cục Quản lý lao động ngoài nước phối hợp với phía Nhật Bản đã triển khai 10 khóa với 2.012 ứng viên được tuyển chọn và đào tạo, trong đó 8 khóa đầu tiên có 1.746 điều dưỡng, hộ lý đã xuất cảnh sang làm việc tại các cơ sở tiếp nhận của Nhật Bản[10].
Mặc dù số lượng công ty được phép ngày càng tăng, nhưng số lượng thực tập sinh hộ lý sang Nhật Bản làm việc không tăng nhiều, do nguồn ứng viên hạn chế, cộng thêm thời gian đào tạo dài. Các cơ sở tiếp nhận ở Nhật Bản đánh giá cao thực tập sinh hộ lý Việt Nam và có nhu cầu tiếp nhận số lượng lớn.
2. Sự hấp dẫn của thị trường Nhật Bản đối với lao động xuất khẩu Việt Nam
Cho đến nay, Nhật Bản vẫn được đánh giá là một thị trường xuất khẩu lao động hấp dẫn của Việt Nam, vì những lý do chủ yếu sau:
Trước hết, nhu cầu tuyển dụng lao động của Nhật Bản hiện đang và sẽ rất lớn. Ngày 25/12/2018, Nội các Nhật Bản đã thông qua một gói chính sách mới về chương trình nhập khẩu lao động Nhật Bản. Theo đó, trong vòng 5 năm kể từ tháng 4/2019, Nhật Bản sẽ tiếp nhận 345.000 lao động nước ngoài cho các ngành đang thiếu hụt lao động như xây dựng, nông nghiệp, điều dưỡng... Những nước được ưu tiên tuyển chọn sẽ là Trung Quốc, Indonesia, Mông Cổ, Myanmar, Nepal, Thái Lan, Philippines và Việt Nam[11].
Thứ hai, Nhật Bản có khoảng cách địa lý với Việt Nam không xa; khí hậu ôn hòa; là quốc gia châu Á, về cơ bản, có nhiều nét tương đồng và gần gũi về con người, văn hóa, tôn giáo, phong tục tập quán với Việt Nam;
Thứ ba, từ nhiều năm qua, quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước ngày càng phát triển theo chiều sâu. Nhật Bản đang nằm trong top 2 nhà đầu tư FDI, top 3 nhà xuất nhập khẩu và luôn là nhà viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Ngoài ra, quan hệ hợp tác về văn hóa, giáo dục và quân sự giữa hai nước ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu.
Thứ tư, tùy theo ngành nghề và trình độ, mức lương trung bình trả cho người lao động xuất khẩu ở Nhật Bản thường dao động trong khoảng 1.800-2.500 USD/tháng, thậm chí 3.000 USD/tháng, cao hơn đáng kể so với các thị trường khác, và với mức thu nhập trên, nhiều lao động sau khi về nước đã có cuộc sống tốt hơn[12]. Các chế độ phúc lợi như bảo hiểm, nghỉ phép, lương thưởng ở Nhật Bản thường được quy định rõ ràng. Người lao động được đóng bảo hiểm, đảm bảo quyền lợi nơi ăn, chỗ ở trong suốt thời gian hợp đồng. Được thưởng năng suất lao động và nghỉ phép, nghỉ lễ tết theo luật lao động của Nhật Bản. Thời gian làm việc 8 tiếng/ngày, thời gian làm thêm ngoài giờ sẽ được tính lương tăng ca nhân hệ số. Ngoài ra, Nhật Bản có điều kiện làm việc, sinh hoạt và quan hệ chủ thợ tốt.
Thứ năm, lao động xuất khẩu làm việc tại Nhật Bản sẽ có nhiều cơ hội học tập và tiếp cận công nghệ hiện đại, tác phong làm việc chuyên nghiệp và có tính kỷ luật cao.
Thứ sáu, thị trường lao động Nhật Bản rất đa dạng ngành nghề, hơn hẳn so với các thị trường Đài Loan, Hàn Quốc. Và người lao động hoàn toàn có thể lựa chọn chủ xí nghiệp, lựa chọn ngành nghề tham gia mà mình ưa thích. Từ năm 2020, Nhật Bản chính thức nới rộng từ 66 lên 77 ngành nghề được phép tiếp nhận thực tập sinh nước ngoài, việc gia tăng ngành nghề mở ra nhiều cơ việc làm cho các lao động Việt.
Có thể nói, đó là nền tảng vững chắc giúp đẩy mạnh xuất khẩu lao động của Việt Nam sang Nhật Bản. Tuy nhiên, theo các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, tuy đơn đặt hàng khá nhiều và đang tăng mạnh, nhưng cũng không ít thách thức đối với người lao động Việt, bởi vì ngoài chi phí đắt đỏ, rào cản ngôn ngữ, Nhật Bản là thị trường đòi hỏi khá cao với những điều kiện khắt khe và chính sách tuyển dụng và quản lý lao động ngày càng siết chặt. Hiện nay, hầu hết các đơn hàng của Nhật Bản đều không tiếp nhận lao động nước ngoài tay nghề thấp, lao động cơ bản, mà chỉ nhận dưới hình thức tu nghiệp sinh, thực tập sinh, điều dưỡng và hộ lý có tay nghề[13].
3. Doanh nghiệp Nhật Bản ưu tiên lựa chọn lao động Việt Nam
Trong nhiều năm trước, lao động từ Trung Quốc vốn là nguồn cung chủ yếu cho thị trường lao động Nhật Bản. Tuy nhiên đến nay nguồn lao động từ Trung Quốc ngày càng khó tuyển dụng hơn. Điều này do kinh tế Trung Quốc ngày càng phát triển, nhu cầu tuyển dụng trong nước của các doanh nghiệp Trung Quốc cũng ngày càng lớn, đời sống người dân Trung Quốc ngày càng được cải thiện, khiến lao động Trung Quốc không muốn đi xuất khẩu lao động nhiều như trước nữa. Đồng thời, quan hệ hai nước Nhật-Trung gần đây đang trở nên không tốt, khiến lao động Trung Quốc không còn muốn sang Nhật Bản và doanh nghiệp Nhật Bản cũng ngại không muốn tuyển lao động Trung Quốc nữa, mà chuyển hướng sang tuyển lao động từ các nước Đông Nam Á và Nam Mỹ. Trong khi đó, quan hệ Nhật Bản - Việt Nam ngày càng mở rộng ra nhiều mặt và hiện đang trở nên rất tốt, tạo đà cho cả nhu cầu lao động từ phía Nhật Bản lẫn nguồn cung từ phía Việt Nam ngày một tăng cao. Đồng thời, lao động Việt Nam về văn hóa, ngoại hình có nhiều điểm tương đồng với người Nhật Bản, khả năng tiếp thu công việc tốt và nhiều doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam rất muốn tuyển lao động đã từng làm việc ở Nhật Bản về nước hơn.
Về cơ cấu dân số Nhật Bản đang ngày càng già hóa, cung lao động trong nước ngày càng giảm, dẫn đến nhu cầu nhập khẩu lao động nước ngoài ngày càng tăng[14]. Để tháo gỡ vấn đề nan giải này, ngoài việc kêu gọi các doanh nghiệp nâng tuổi nghỉ hưu như là một trong những giải pháp tối ưu, chính phủ Nhật Bản đã xúc tiến nhiều biện pháp thu hút lao động nước ngoài để giải quyết tình trạng khan hiếm lao động ở một số ngành nghề cần nhiều sức khỏe mà người cao tuổi không đáp ứng được[15].
Từ năm 2019, Chính phủ Nhật Bản đã xem xét điều chỉnh và bổ sung nhiều chính sách, biện pháp mới nhằm xây dựng một nước Nhật Bản cởi mở và thân thiện để thu hút nhiều hơn nữa lao động nước ngoài đến với "xứ sở hoa anh đào". Đặc biệt, việc Chính phủ Nhật Bản ban hành chế độ visa mới với hai loại visa gồm Kỹ năng đặc định 1 và Kỹ năng đặc định 2 có hiệu lực từ ngày 01/4/2019, được cho là chủ yếu hướng tới nguồn lao động tại các nước Đông Nam Á.
Bên cạnh những ưu điểm và được các doanh nghiệp Nhật Bản ưu tiên lựa chọn, song lao động từ Việt Nam còn nhiều hạn chế, bất cập sau:
Một là, tính kỷ luật kém, hay hành động tự phát, hay đòi hỏi, nếu không được thỏa mãn dễ phản ứng tiêu cực; tác phong làm việc và sinh hoạt không nghiêm túc và thiếu chuyên nghiệp. Sinh hoạt, ăn uống, chi tiêu, sử dụng thời gian rỗi một cách thiếu khoa học, nên hay phát sinh vấn đề.
Hai là, nắm bắt và tuân thủ pháp luật kém. Không nhanh chóng hòa nhập với môi trường làm việc, không hiểu và tôn trọng phong tục tập quán ở địa phương. Hay vi phạm pháp luật (nhỏ là đi tàu xe không trả tiền, tự tiện lấy đồ hoặc vật phẩm của người khác về dùng, lớn thì ăn cắp).
Ba là, dễ bị dụ dỗ và dễ dàng bỏ trốn khỏi xí nghiệp tiếp nhận, hoặc hết hạn hợp đồng không chịu về nước, mà sẵn sàng ở lại bất hợp pháp. Số người cư trú bất hợp pháp từ 1.110 người (tháng 1 năm 2013) đã tăng gấp 10 lần tới 11.131 người (tháng 1 năm 2019); Số thực tập sinh kỹ thuật bỏ trốn ra ngoài "làm chui, sống chui", cư trú bất hợp pháp... đã tăng tới gần 8 lần sau 5 năm, từ 496 người (năm 2012) lên 3.751 người (năm 2017)[16]. Với các doanh nghiệp Nhật Bản, tình trạng này là điều không thể chấp nhận được. Riêng năm 2021 Việt Nam có 4.772 thực tập sinh kỹ năng mất tích và năm 2022 con số này là 5.572, tăng 16,8%[17].
Bốn là, các số liệu thống kê cho thấy, tội phạm hình sự và cư trú bất hợp pháp của người Việt Nam ở Nhật Bản ngày càng gia tăng, chỉ đứng thứ 2 sau Hàn Quốc. Số vụ vi phạm hình sự tăng gấp 3 lần so với năm 2013 (1.197 vụ) lên tới 3.591 vụ (năm 2017), và đạt 2.993 vụ (năm 2018). Người Việt Nam nằm trong top 2 những vụ phạm tội do người nước ngoài gây ra tại Nhật Bản. Chính vì thế, ngoài Trung Quốc, Nepal, Myanmar, Sri Lanka thì Việt Nam là quốc gia đứng thứ 5 mà du học sinh bị Nhật Bản áp dụng chính sách nghiêm ngặt hơn khi nhập cảnh từ giữa tháng 3/2017[18].
4. Giải pháp nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu sang Nhật Bản
Để có thể tận dụng được những ưu thế của thị trường lao động Nhật Bản, Việt Nam cần phải có những biện pháp và cung cách đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng lao động (cả về thể lực, trí lực lẫn tâm lực) trước khi đưa họ sang Nhật Bản làm việc.
4.1. Hoàn thiện quan điểm về xuất khẩu lao động
Các nhà hoạch định chính sách, các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp và cả người lao động cần phải xác định rõ rằng, trong nhiều năm tới, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài luôn phải là một giải pháp lâu dài, phù hợp xu hướng nguồn cung trong nước cũng như nhu cầu tuyển dụng lao động của một số nước ngày càng lớn, nên cần có những chính sách, biện pháp đồng bộ, căn bản và lâu dài để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu, tránh tình trạng “ăn đong, bóc ngắn cắn dài”. Do đòi hỏi của thị trường xuất khẩu lao động cũng như do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt từ nguồn cung lao động có chất lượng và chuyên nghiệp từ các nước trong khu vực, nên đã đến lúc chúng ta không chỉ dựa mãi vào lợi thế lao động phổ thông giá rẻ, mà chúng ta cần phải chuyển dần sang coi trọng việc nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu; đề cao hình ảnh dân tộc, thương hiệu lao động Việt Nam.
Ngoài tiêu chuẩn về thể lực, cần chú ý đào tạo để nâng cao trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật và tay nghề, và giáo dục người lao động có thái độ, tác phong làm việc chuyên nghiệp, tôn trọng kỷ luật, có lối sống lành mạnh, và biết ứng xử có văn hóa và văn minh. Để nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu sang Nhật Bản, bên cạnh ý thức cao của bản thân người học, còn phải có sự chung tay, hợp tác của cả nhà trường lẫn doanh nghiệp để định hướng, bồi dưỡng kiến thức, thay đổi tư duy của học viên với suy nghĩ “học để đi làm việc ở nước ngoài, khi trở về phải làm chủ…”, cho nên cần chuyển dần từ tư duy “xuất khẩu lao động chỉ để kiếm tiền mà còn phải học hỏi, tiếp thu kiến thức về khoa học và công nghệ, về quản lý và tác phong làm việc” của nước sở tại.
Khi xây dựng chương trình đào tạo, phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của thị trường và doanh nghiệp, từ đó mới xác định dạy những kiến thức gì và thực hành ra sao. Quá trình thiết kế đào tạo phải bài bản trên cơ sở chuyên môn của doanh nghiệp tiếp nhận, từ đó sẽ nâng cao cả mặt lượng lẫn mặt chất cho lao động xuất khẩu tại Việt Nam. Bên cạnh đó, cần gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở tuyển dụng, đào tạo nghề với thị trường lao động trong việc chuẩn bị đưa lao động đi xuất khẩu.
4.2. Nâng cao chất lượng đào tạo lao động xuất khẩu sang Nhật Bản của các doanh nghiệp phái cử
Trước hết, các cơ sở đào tạo cùng với các doanh nghiệp phái cử cần tư vấn và định hướng cho các học viên và người lao động lựa chọn ngành nghề đào tạo và làm việc phù hợp trước khi đi xuất khẩu lao động sang Nhật để tránh lãng phí và bỡ ngỡ. Cần phải làm cho mỗi người lao động khi tham gia chương trình tuyển chọn đi xuất khẩu lao động sang Nhật Bản hiểu rõ được bản thân đang có những (điểm mạnh và yếu) gì, phù hợp với ngành nào, có thỏa mãn các tiêu chí mà phía Nhật Bản yêu cầu hay không?
Thứ hai, ngoài những thông tin “màu hồng”, các doanh nghiệp phái cử, các cơ sở đào tạo và cả các cơ quan nhà nước có liên quan cần thông tin rõ và khách quan cho các ứng viên về cả những mặt trái, những tiêu cực, những khó khăn, rủi ro và thách thức của thị trường và xã hội Nhật Bản[19].
Thứ ba, để nâng cao được chất lượng lao động tu nghiệp và làm việc tại Nhật Bản, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần tiến hành tuyển chọn lao động kỹ lưỡng. Thực tiễn cho thấy, dễ dãi hoặc thiếu cẩn trọng trong lựa chọn đầu vào sẽ không thể có được một đội ngũ lao động có chất lượng tốt để đáp ứng yêu cầu của đối tác và thường dẫn đến nhiều hậu quả xấu, gây tổn thất cả về kinh tế lẫn thương hiệu của doanh nghiệp. Tuyển chọn kỹ lưỡng ở đây bao gồm cả tiêu chí tuyển chọn lẫn cách làm: (i) Về tiêu chí tuyển chọn, cần phải có những tiêu chí tuyển chọn rõ ràng, khách quan, minh bạch và ổn định theo hướng ngày càng thắt chặt; (ii) Về cách tuyển chọn, các doanh nghiệp phải có một quy trình tuyển chọn chặt chẽ và kiểm soát được, tránh khoán trắng cho các môi giới. Quá trình tuyển chọn cũng không chỉ tập trung ở thời điểm người lao động được đối tác Nhật đồng ý tuyển lựa, mà còn phải tiếp tục theo dõi, sàng lọc trong thời gian đào tạo, giáo dục định hướng cho đến khi xuất cảnh, cần kiên quyết loại bỏ những lao động bị phát hiện thấy có vi phạm hoặc có vấn đề có thể không đảm bảo hợp đồng lao động.
Thứ tư, tăng cường thời lượng và chất lượng đào tạo cho người lao động trước khi đi xuất khẩu lao động. Về mặt thời lượng, ở các doanh nghiệp có chất lượng đầu ra tốt thường phải đào tạo ít nhất 4 – 6 tháng, nhằm đạt tiếng Nhật trình độ 3 và giáo dục định hướng bổ túc nghề. Thậm chí, đối với kỹ sư, các lớp đào tạo cần kéo dài tới 6-8 tháng để vừa đào tạo tiếng, vừa bổ túc nâng cao tay nghề chuyên môn.
Đây là nền tảng tốt để các thực tập sinh hoàn thành tốt công việc và có thể dễ dàng học để đạt trình độ 2 tiếng Nhật và kiếm được việc làm có thu nhập cao trong thời gian ở Nhật Bản cũng như sau khi về Việt Nam.
Để đảm bảo lao động trước đi xuất khẩu có chất lượng cao, trong đào tạo, các doanh nghiệp cần phải quan tâm thực hiện những giải pháp cụ thể sau:
- Có cơ sở đào tạo nội trú đủ điều kiện về nơi ăn chốn ở, rèn luyện sức khỏe, học ngoại ngữ, bổ túc nghề cho người lao động;
- Có chuyên gia, giáo viên Nhật Bản giúp đào tạo ngoại ngữ, bổ túc nghề và giáo dục định hướng cho người lao động. Các công ty HR, Batimex, CEO, Suleco, LOD, Traenco-Hiteco, ADC, AIC, Airseco, Tocontap Saigon... đều áp dụng biện pháp này và rất có hiệu quả.
- Tổ chức nếp sống quân sự cho các thực tập sinh trong quá trình đào tạo. Đây cũng là giải pháp được nhiều công ty áp dụng và đem lại hiệu quả rõ rệt như LOD, Batimex, ADC, CEO...
- Tâm lý phổ biến của người lao động là muốn học ngắn và được xuất cảnh nhanh, vì vậy ngay từ đầu cần có những bài giảng tư vấn để tạo động lực cho người lao động, khuyến khích họ tự giác và say sưa học tập rèn luyện để đạt kết quả tốt.
Thứ năm, đến nay, trong hơn 60 doanh nghiệp tham gia cung ứng lao động cho thị trường Nhật Bản, mới chỉ có khoảng 1/3 doanh nghiệp có cơ sở đào tạo lao động tương đối tốt trước khi đi Nhật Bản, số còn lại hoặc đầu tư chưa đủ tầm, và tính chuyên nghiệp của đội ngũ làm việc với phía Nhật Bản chưa cao hoặc còn thiếu kinh nghiệm nên kết quả còn hạn chế.
Do đó, trong tương lai, cần tăng cường đầu tư, nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong hoạt động của doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Đây là nhóm giải pháp góp phần không nhỏ vào thành công của doanh nghiệp ở thị trường này.
- Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo bằng nguồn vốn của mình và tranh thủ hợp tác hỗ trợ của đối tác, trong đó đầu tư để có một trung tâm đào tạo tiếng Nhật và giáo dục định hướng tập trung, nội trú là yêu cầu tối thiểu.
- Đầu tư nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ, tận dụng lực lượng giáo viên và chuyên gia từ Nhật Bản là một trong những giải pháp hữu ích cho sự thành công của mỗi doanh nghiệp;
- Đầu tư để xây dựng quan hệ và có đối tác, bạn hàng tốt, tin cậy từ Nhật Bản cũng là một giải pháp không thể thiếu cho phát triển thành công ở thị trường này.
Thứ sáu, ngoài kiến thức chuyên môn, cần coi trọng bồi dưỡng kiến thức phổ thông cho người đi xuất khẩu lao động nói chung và sang Nhật Bản nói riêng là một biện pháp quan trọng và cần thiết nhằm nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu, vì những chương trình này sẽ cung cấp cho người lao động những thông tin cơ bản về pháp luật Việt Nam và Nhật Bản (lao động, giao thông, ứng xử nơi công cộng,...), ý thức tuân thủ pháp luật cũng như phong tục, tập quán, ý thức tôn giáo, văn hóa để giúp họ hòa nhập nhanh hơn với cuộc sống ở nơi họ sẽ tới làm việc cũng như giúp họ biết cách bảo vệ bản thân và tối đa hóa lợi ích trong quá trình sống và làm việc tại Nhật.
Đây cần được coi là một trong những nội dung bắt buộc đối với những cá nhân, tổ chức doanh nghiệp có chức năng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và cần được thể chế hóa thành luật pháp của Việt Nam.
4.3. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước
Một là, xây dựng nội dung và chương trình đào tạo nghề và ngoại ngữ phù hợp với yêu cầu về kỹ năng nghề, ngoại ngữ của đối tác nước ngoài, trong đó chú trọng huấn luyện kỹ năng nghề cho người lao động và an toàn vệ sinh lao động nhằm ngăn ngừa tai nạn xảy ra trong quá trình tác nghiệp. Đồng thời, nhà nước cần quy định tiêu chuẩn nghề theo từng thị trường và tiến hành kiểm định chất lượng và trình độ nghề và ngoại ngữ trước khi đi làm việc ở nước ngoài tại các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp xuất khẩu.
Hai là, thí điểm đề án đặt hàng đào tạo nghề cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo cơ chế đặt hàng. Nội dung chủ yếu của đề án là: Nhà nước hỗ trợ 70% chi phí học nghề cho người lao động, doanh nghiệp hoặc người lao động chịu chi phí 30% còn lại, nếu người lao động đạt trình độ nghề theo quy định và được đối tác nước ngoài tiếp nhận. Mục tiêu là khuyến khích người lao động đầu tư học nghề trước khi xuất khẩu nhằm tăng tỷ lệ lao động có nghề đi làm việc ở nước ngoài, tạo khả năng cạnh tranh và từng bước xây dựng thương hiệu lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế.
Ba là, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành để chủ động đào tạo nguồn lao động đáp ứng kịp thời yêu cầu về số lượng và chất lượng lao động của chủ sử dụng lao động ngoài nước.
Bốn là, nhà nước cần kêu gọi các nước có nhu cầu tiếp nhận lao động có nghề của Việt Nam tham gia đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị thực hành, giáo trình, tài liệu giảng dạy và học tập, đào tạo chuẩn hóa đội ngũ giảng viên.
Cuối cùng, nhưng rất quan trọng, chính phủ, trước hết là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, cần ban hành các biện pháp cụ thể để nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật và tuân thủ pháp luật nhằm giảm thiểu đến mức tối đa tình trạng bỏ trốn và vi phạm pháp luật của các lao động xuất khẩu tại Nhật Bản nói riêng và các thị trường khác nói chung[20].
4.4. Trách nhiệm của người lao động
Người lao động có nguyện vọng đi làm việc ở nước ngoài nói chung, ở Nhật Bản nói riêng, cần phải chủ động tìm hiểu pháp luật có liên quan và tham gia tích cực và có trách nhiệm các khóa bồi dưỡng kiến thức cần thiết do các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân được phép đưa lao động đi xuất khẩu có tổ chức.
1. Lâm Anh, “Sức ép dân số Nhật Bản”, https://www.qdnd.vn/thoi-su-quoc-te/doi-song-quoc-te/suc-ep-dan-so-gia-o-nhat-ban-635966.
2. Cục Quản lý lao động nước ngoài, “Đã đưa hơn 1.700 điều dưỡng, hộ lý sang Nhật Bản làm việc”, https://vneconomy.vn/da-dua-hon-1-700-dieu-duong-ho-ly-sang-nhat-ban-lam-viec.htm.
3. P. Diệp, “Việt Nam- Nhật Bản: Tối ưu hóa giao lưu nhân lực vì sự phát triển thị trường lao động”, https://laodongthudo.vn/viet-nam-nhat-ban-toi-uu-hoa-giao-luu-nhan-luc-vi-su-phat-trien-thi-truong-lao-dong-154230.html.
4. Thu Linh, “Tỷ lệ sinh tại Nhật Bản thấp kỷ lục trong 120 năm”, https://vnexpress. net/ty-le-sinh-tai-nhat-ban-thap-ky-luc-trong-120-nam-4032574.html.
5. Bảo Minh, “Biện pháp giảm thiểu tối đa thực tập sinh Nhật Bản bỏ trốn ở Nhật Bản đến mức thấp nhất”, https://tuvanvieclam.com. vn/bien-phap-giam-thieu-toi-da-thuc-tap-sinh-nhat-ban-bo-tron-o-nhat-ban-den-muc-thap-nhat.
6. Mitaco, “Thực trạng du học sinh Việt Nam tại Nhật Bản hiện nay như thế nào?”, https://mitaco.net.vn/thuc-trang-du-hoc-sinh-viet-nam-tai-nhat-ban/.
7. Hà Quân, “Tại sao lao động Việt Nam thích sang Nhật Bản làm việc?”, https://tuoitre.vn/tai-sao-lao-dong-viet-nam-thich-sang-nhat-ban-lam-viec-20220905173404701.htm.
8. Thanh Nga, “Lý do du học sinh Việt Nam tới Nhật ngày càng nhiều”, https://locobee. com/mag/vi/2022/06/23/li-do-du-hoc-sinh-viet-nam-toi-nhat-ngay-cang-nhieu/.
9. “Trong 5 năm tới, Nhật Bản mở cửa đón thêm 345.000 lao động nước ngoài”, http://xkldnhat.org/tin-tuc/trong-5-nam-toi-nhat-ban-mo-cua-don-them-345-000-lao-dong-nuoc-ngoai.
10. “Việt Nam đứng thứ hai về số lượng du học sinh đang theo học tại Nhật Bản”, https://tuoitre.vn/viet-nam-dung-thu-2-ve-so-luong-du-hoc-sinh-dang-theo-hoc-tai-nhat-ban-20210813145022972.htm.
11. “Người Việt là lực lượng lao động người nước ngoài đông nhất ở Nhật Bản”, https://tuoitre.vn/nguoi-viet-la-luc-luong-lao-dong-nguoi-nuoc-ngoai-dong-nhat-o-nhat-ban-20230130150415664.htm.
12. Nguyễn Mạnh Tuân, “Xuất khẩu lao động sang thị trường Nhật Bản trong bối cảnh mới: Thực trạng và giải pháp”, http://www. inas.gov.vn/674-xuat-khau-lao-dong-sang-thi-truong-nhat-ban-trong-boi-canh-moi-thuc-trang-va-giai-phap.html.
13. Nguyễn Tuyến, “Lao động châu Á tại Nhật Bản”, https://baotintuc.vn/the-gioi/lao-dong-chau-a-tai-nhat-ban-bai-1-dong-nam-a-nguon-cung-lao-dong-quan-trong-20200826101046984.htm.
14. Nguyễn Tuyến, “Lao động châu Á tại Nhật Bản - Bài 3: Lao động Việt Nam – Nguồn nhân lực chất lượng cho thị trường”, https://baotintuc.vn/the-gioi/lao-dong-chau-a-tai-nhat-ban-bai-3-lao-dong-viet-nam-nguon-nhan-luc-chat-luong-cho-thi-truong-20200827063434168.htm.
15. VINACOM, “Thị trường xuất khẩu lao động Nhật Bản nhiều cơ hội cho lao động Việt Nam”, https://vinacomvietnam.vn/vi/tin-tuc-khac/1418008700-thi-truong-xkld-nhat-ban-nhieu-co-hoi-cho-lao-dong-viet-nam.html.
16. “Tình trạng lao động nước ngoài tại Nhật Bản”, https://www.kokoro-vj.org/vi/post_ 2040.