Trong Thánh lễ lúc 10 giờ 00, Chúa Nhật, 22.10.2023, tại Nhà thờ Thái Hà, Tổng giáo phận Hà Nội đã có 21 anh chị em tân tòng vừa được lãnh nhận các Bí tích khai tâm để trở thành con cái Chúa trong Giáo hội Công giáo. Thật ý …
Nhà thờ Turku – Công trình tôn giáo cổ kính và quan trọng nhất ở Phần Lan
Có niên đại từ giữa thế kỷ 13, nhà thờ Turku ban đầu là một nhà thờ nhỏ bằng gỗ được thánh hiến làm nhà thờ Thánh Mary, xây dựng trên ngọn đồi Unikankare ở trung tâm Turku. Sau đó, nhà thờ được cung hiến làm nhà thờ chính của Phần Lan vào năm 1300, nơi ở của giám mục Turku. Nhà thờ sau này đã được mở rộng vào thế kỷ 14 và 15, chủ yếu sử dụng đá làm vật liệu xây dựng.
Mặt trước của nhà thờ Turku đầu tiên là nơi có bục giảng ngày nay. Một dàn hợp xướng mới đã được thêm vào trong thế kỷ 14. Vào thời Trung Cổ, một số phần của nhà thờ đã được mở rộng thêm. Trong thế kỷ 15, các nhà nguyện phụ đã được thêm vào dọc theo phía bắc và phía nam của gian giữa dành riêng cho các vị thánh khác nhau.
Mặc dù nhiều vật phẩm quý giá của nhà thờ Turku qua nhiều thế kỷ đã bị cướp bóc hoặc bị hỏa hoạn phá hủy, nhưng một số vật phẩm còn sót lại được trưng bày trong bảo tàng bên trong nhà thờ. Nhà thờ cũng có ba cơ quan với cơ quan chính được lắp đặt vào năm 1980.
Nhà thờ Temppeliaukio tọa lạc tại trung tâm thủ đô Helsinki (Phần Lan). Năm 1930, hai anh em kiến trúc sư Timo và Tuomo Suomalainen đã ấp ủ kế hoạch xây dựng một nhà thờ ẩn bên trong khối đá granite to lớn.Tuy nhiên Thế chiến thứ 2 bùng nổ khiến hoạt động xây dựng đã bị gián đoạn. Mãi đến năm 1968, dự án mới được khởi động trở lại và chính thức đưa vào sử dụng vào năm 1969 cho đến nay.
Nhìn từ bên ngoài, Temppeliaukio trông giống một chiếc đĩa bay nấp sau một tảng đá lớn. Chỉ một chút phần mái nhô lên báo hiệu cho du khách biết rằng có một ẩn số kiến trúc ngự trị.
Các kiến trúc sư đã dùng mìn nổ bên trong khối đá granite tạo ra khoang trống khổng lồ. Sau đó họ tạo lối ra, xây bậc thang và tiếp tục hoàn thành các hạng mục bên trong. Tuy ẩn mình trong lòng khối đá nhưng ánh sáng thiên nhiên vẫn chan hòa từng ngõ ngách bên trong. Mái vòm bằng đồng cao ráo, hệ thống kính phân theo ô xếp theo hướng chiếu của nắng mặt trời.
Nhà thờ ở Phần Lan – Thánh đường Uspenski
Tòa thánh đường Uspenski (còn gọi là Thánh đường Đức Mẹ An Giấc) nằm ở số 39A Unionikatu, trên ngọn đồi của bán đảo Katajanokka, thuộc thủ đô Helsinki, Phần Lan, là nhà thờ chánh của những người Phần Lan theo đạo Chánh Thống Giáo ở Helsinki.
Công trình được thiết kế bởi kiến trúc sư người Nga Andreassey Gornostayev nhưng đến tận khi ông qua đời vào năm 1862, nó mới được bắt đầu xây dựng và khánh thành vào 25/10/1868 dưới sự dẫn dắt của kiến trúc sư Ivan Varnek.
Đặc biệt, Uspenski còn được công nhận là nhà thờ Chánh Thống Giáo lớn nhất ở phương Tây và thu hút hơn nửa triệu người đến thăm viếng mỗi năm.
Thánh đường Uspenski được xây dựng theo phong cách Byzantine Nga, kiến trúc gần giống như nhà thờ gần Moscow được xây dựng vào thế kỷ 16 với những mái vòm màu vàng, màu xanh lá cây và những bức tường gạch đỏ trông rất nổi bật và cuốn hút.
Để hoàn thành công trình này người ta phải sử dụng đến 700.000 viên gạch mang về từ pháo đài Bomarsund đã bị phá hủy trong chiến tranh Crimea tại Aland.
Mái vòm trung tâm của nhà thờ Uspenski được nâng trên đỉnh 4 cột trụ bằng đá granit khổng lồ – một kỹ thuật làm mái quen thuộc trong các nhà thờ Chánh Thống Giáo ở Nga. Trên các mái vòm thì được trang trí tinh xảo bởi hình ảnh các thánh tiêu biểu như biểu tượng chúa Giêsu và các Tông Đồ.
Nhà thờ Kuokkala được xây dựng với lối kiến trúc đương đại và được chọn lọc những kiến trúc của một nhà thờ cổ truyền. Đây còn được biết tới là một công trình xanh có tính bền vững. Bề mặt của nhà thờ được cấu tạo hoàn toàn từ cây vân sam đây là một loại cây của địa phương. Gỗ của loại cây này có khả năng phản ánh năng mặt trời càng làm tôn lên nét mê hoặc của công trình
Trần của nhà thời là sự kết hợp giữa keo khung gỗ nhiều lớp và cấu trúc vỏ lưới bằng gỗ. Các bức tường, mái nhà thờ được bao phủ giữa gỗ và đá tây ban nha tạo lên một không gian vô cùng sang trọng và ấm áp. Nhà thờ Kuokkala mang trong mình một vẻ đẹp vừa hiện đại là có phần đơn giản xứng đáng là một trong những trung tâm giáo xứ, văn hóa cộng đồng của thành phố.
Trên đây là những nhà thờ ở Phần Lan tượng trưng cho những tín ngưỡng tôn giáo được xây dựng từ lâu đời. Hy vọng bài viết đã cung cấp đến bạn những thông tin hữu ích.
Phía bắc cầu Thăng Long có thôn Bầu, xã Kim Chung, xưa là một thôn riêng biệt, lập thành xã Đa Lộc, nay sáp nhập với các thôn Hậu Dưỡng, Nhuế thành xã Kim Chung. Ba thôn thành một xã, nhưng mỗi thôn đều có một lịch sử hình thành, truyền thuyết, lễ hội dân gian riêng biệt.
Người vùng này có câu thành ngữ: “Cá trầm Bầu, trâu Cổ Điển, kiến Thọ Đa”, cũng đã nói lên đặc điểm của từng vùng. Nói “cá trầm Bầu” là nói về một thủy vực không sâu nhưng rộng, dân gian gọi là trầm. Truyền rằng từ ngàn xưa, đất nước ta còn ngập lụt khắp nơi, bờ đê, bờ bao chưa có nên vùng trũng nào cũng có nước, mà rộng lớn nhất đó là đầm Dạ Trạch. Đầm đó lớn, những chi nhánh của nó ăn lan ra nhiều nơi, tuy không thành đầm,thành phá thì cũng thành trầm, trong đó có trầm Bầu thuộc huyện Đông Ngàn.
Cũng ở khu vực này có một thôn nhỏ, lập nhà ở Bãi Dé là đất cao, nhưng vì ở trên đó không có nước. Người giỏi phong thủy mách bảo nên đến trầm Bầu mà sinh sống. Quả nhiên dân làng đến nơi ở mới, cuộc sống đỡ vất vả hơn. Rồi có một năm lụt to, phù sa dồn về nhiều đã tạo thành cồn bãi khiến đất đai màu mỡ hơn, dân làng trở nên giàu có, đổi tên thôn là Đa Lộc. Sau này Đa Lộc phát triển thành nơi “nhất xã nhất thôn” vẫn lấy tên cũ là Đa Lộc.
Thôn Đa Lộc thờ Cao Sơn Đại vương, Thanh Sơn Đại vương, Linh Sơn Đại vương làm Thành hoàng bản thổ. Tại thôn cũng có riêng ngôi đền thờ công chúa Tiên Dung và có tục lệ tổ chức hội riêng biệt. Theo cụ Phẩm, một vị cao tuổi, biết nhiều chuyện cũ kể lại thì làng Đa Lộc thờ Công chúa Tiên Dung bởi lẽ đã sinh sống tại chi lưu đầm Dạ Trạch, nơi có bãi Tự Nhiên, có cuộc “thiên duyên kỳ ngộ” giữa Công chúa Tiên Dung và Chử Đồng Tử nên thôn Bầu hầu hạ cúng Ngài. Nhưng có điều lạ là thôn thường tổ chức đồng nhất cho lễ hội các vị cùng một ngày. Đó là ngày 8 tháng giêng hàng năm. Hai câu đối cổ thường treo bên bàn thờ tứ vị tại hậu cung:
Thiên thu khí phách ngưỡng Biều phong.
Bốn vị thần nổi danh trong sử nước
Ngàn năm qua khí phách còn lưu ở đất Biều.
Người trong thôn đến nay còn nhớ câu: “Mồng tám mở hội, mồng chín vui xuân, mồng mười đóng thuyền, mười một tế cáo, mười hai rước quay mũi thuyền, hóa mã và rã hội”. Như vậy, ngày hội có hai phần: tế các vị Thành hoàng và tế rước thuyền Tiên chúa. Thuyền tiên được chuẩn bị trong ngày mồng mười, nhưng từ các ngày trước đó, những trai làng đã vào hội hương ẩm được cử đi mua “gỗ” đóng thuyền. Nhưng đó là mua gỗ gì và mua ở đâu?
Lệ làng là đi “mua gỗ”, nhưng thực ra là đi đến các xóm bãi ven sông Hồng, nơi có hàng ngàn cây chuối tại các vườn nhà. Đến nơi đó, các trai làng phải khéo léo xin được cất những tàu lá chuối dài nhất, to nhất đem về đóng thuyền lễ. Và cũng có một mối quan hệ kỳ lạ, hàng năm những xóm bãi ven sông đều hồ hởi tiếp khách, hưỡng dẫn khách “mua” chọn những cây to để có tàu lá đẹp về đóng thuyền Tiên chúa. Họ tin rằng góp phần nhỏ như vậy sẽ được Tiên chúa phù hộ cả năm.
Những tàu lá thu được mang về sân đình, và được các cụ chọn lựa từng tàu, bỏ đi những tàu lá rách, hoặc có vết sâu trên bẹ. Sau khi chọn, các cụ dùng dao dọc bỏ lá, xếp ba cái bẹ làm một, dùng đinh tre đóng xuyên qua, ghép so le cho chắc chắn. Để làm được thuyền cũng phải chọn người có chân trong hương ẩm, trong tư văn mới được giao việc.
Ngày trước, ở thôn Bầu có cụ Khán Đốc, cụ Khán Thôn, cụ Khán Oanh, cụ Khán Giữa, cụ Ba Lung đều là những người biết đóng thuyền, tiếc rằng nay các cụ đều đã quy tiên. Làm thuyền xong, các vị trang hoàng trên thuyền. Con thuyền hoàn thành có kích thước 2,5x1,8m, nhưng trên đó có cả linh xa tám mái và cờ, quạt. Những thứ đó đều là hàng mã do gia đình cụ Chồi ở xóm Đông Nhất làm. Đó cũng là gia đình làm mã giỏi nhất thời đó.
Ngày 11 làm lễ tế cáo với Thành hoàng. Hôm đó, sau lễ tế, các dòng họ trong thôn cùng khách thập phương làm lễ. Lễ tế xong, mọi người chuẩn bị cho đám rước ngày hôm sau. Người ta làm lễ quay mũi thuyền ra phía trước, sửa sang lại những chỗ trên thuyền cho chắc chắn để hôm sau rước.
Ngày 12 đám rước khổng lồ được tiến hành, có cờ hiệu các Thánh, có người mang bát bửu, lộ bộ đi trước cùng với dàn nhạc dân tộc. Sau dó mới đến cờ, tàn, lọng, quạt và xúm xít đi chung quanh bốn cỗ kiệu bát cống theo thứ tự: ngài Cao Sơn, ngài Thanh Sơn và ngài Linh Sơn. Đi cuối cùng là kiệu của Đức Bà. Từ kiệu thờ của Đức Bà có một phù kiều bằng lụa dài, do các bà vãi trong làng đội. Phù kiều đó nối từ kiệu tới thuyền như một sợi dây kéo thuyền theo kiệu Tiên Chúa.
Đám rước đi tới đền Tiên Chúa thì quay về đình. Riêng kiệu Tiên chúa rước vào đền để các quan viên làm lễ tế và các bà làm lễ dâng hương. Lễ xong, mới nâng thuyền lên đi ra trầm Bầu, nhẹ nhàng thả xuống diễn lại tính chúa Tiên Dung thanh thản dạo chơi trên sông nước.
Về điển lễ thờ ngài Cao Sơn nên làng có kiêng cữ: đó là làng kiêng chữ “Cao”, thường đọc là Kiêu, còn vật phẩm cúng tế không kiêng kỵ. Trong ngày vui xuân, thôn tổ chức đánh đu, đánh cờ người, võ vật.
Bây giờ trầm Bầu cũng đã khác xưa. Nhiều nơi đang được đắp thêm nền để làm đường mới, nối từ đường số 5 về khu công nghiệp. Nhớ lại câu ngạn ngữ: “Cá trầm Bầu - trâu Cổ Điển - kiến Thọ Đa”, các cụ nói rằng trầm Bầu nhiều cá, Cổ Điển trâu tốt và khỏe, còn kiến Thọ Đa có nghĩa là đất Thọ Đa cao, khi có mùa nước, kiến chạy tổ khắp nơi về gò cao Thọ Đa nên ở đó có nhiều loại kiến. Và kiến ở đó cũng hung dữ cắn người không sợ gì ai!
Vui câu chuyện, các cụ còn kể về sông Thiếp, thì ra con sông này vốn xưa là nơi thanh vắng, các thê thiếp nhà quan thường ra tắm nên có tên là sông Thiếp.